Vốn xã hội là gì? Các công bố khoa học về Vốn xã hội

Vốn xã hội là tổng hợp các tài nguyên về kiến thức, kỹ năng, mối quan hệ và giá trị văn hoá trong một xã hội nhất định. Nó bao gồm những yếu tố về môi trường số...

Vốn xã hội là tổng hợp các tài nguyên về kiến thức, kỹ năng, mối quan hệ và giá trị văn hoá trong một xã hội nhất định. Nó bao gồm những yếu tố về môi trường sống, hệ thống giáo dục, hệ thống chính trị, nền kinh tế, quyền lợi và trách nhiệm xã hội của các thành viên trong xã hội. Vốn xã hội có vai trò quan trọng trong việc xác định sự phát triển và thành công của một xã hội. Nó ảnh hưởng đến khả năng của mỗi cá nhân và nhóm xã hội trong việc tạo ra và sử dụng các tài sản, cũng như tạo ra giá trị và tiến bộ cho cả xã hội.
Vốn xã hội bao gồm các yếu tố cấu thành cơ bản như:

1. Vốn nhân lực: Tập hợp các kiến thức, kỹ năng, năng lực và sức lao động của cá nhân trong xã hội. Vốn nhân lực đóng vai trò quan trọng trong quá trình sản xuất, đưa ra quyết định và phát triển kinh tế.

2. Vốn văn hoá: Gồm các giá trị, thái độ, quan niệm, đạo đức, ngôn ngữ và hành vi xã hội mà mọi người trong xã hội chia sẻ. Vốn văn hoá có ảnh hưởng đến nhận thức và hành vi xã hội, góp phần xây dựng và duy trì các quy tắc, chuẩn mực và truyền thống trong xã hội.

3. Vốn môi trường: Bao gồm tài nguyên thiên nhiên, đất đai, không gian và các yếu tố môi trường khác mà xã hội sử dụng và tương tác với. Vốn môi trường quyết định khả năng của xã hội sinh sản, phát triển và duy trì môi trường sống bền vững.

4. Vốn kinh tế: Gồm tài sản, tài chính và công nghệ có sẵn cho sản xuất và phân phối hàng hóa và dịch vụ. Vốn kinh tế ảnh hưởng đến hiệu suất và sự cạnh tranh của xã hội trong nền kinh tế toàn cầu.

5. Vốn chính trị: Bao gồm hệ thống chính trị, pháp luật, quyền lực và cơ chế chính sách cũng như quan hệ quyền lực giữa các thành viên trong xã hội. Vốn chính trị đóng vai trò quan trọng trong việc xác định quyền lợi và trách nhiệm của mỗi thành viên trong xã hội.

Vốn xã hội không chỉ đơn thuần là tổng hợp các yếu tố trên mà còn liên quan đến cách mọi người sử dụng và phát triển những tài nguyên này. Quản lý và tăng cường vốn xã hội là một mục tiêu quan trọng của các chính phủ và tổ chức xã hội nhằm đảm bảo sự phát triển và trường tồn bền vững của xã hội.

Danh sách công bố khoa học về chủ đề "vốn xã hội":

Tổng hợp Thromboxane Kháng Aspirin và Nguy cơ Nhồi Máu Cơ Tim, Đột Quỵ, hoặc Tử Vong Tim Mạch ở Bệnh Nhân Có Nguy Cơ Cao Gặp Các Sự Kiện Tim Mạch Dịch bởi AI
Ovid Technologies (Wolters Kluwer Health) - Tập 105 Số 14 - Trang 1650-1655 - 2002

Bối cảnh Chúng tôi đã nghiên cứu liệu kháng aspirin, được định nghĩa là sự không thành công của việc ngăn chặn sản xuất thromboxane, có gia tăng nguy cơ xảy ra các sự kiện tim mạch ở một quần thể có nguy cơ cao hay không.

Phương pháp và Kết quả Mẫu nước tiểu cơ bản đã được thu thập từ 5529 bệnh nhân Canada tham gia trong nghiên cứu Heart Outcomes Prevention Evaluation (HOPE). Sử dụng thiết kế case-control lồng nhau, chúng tôi đo nồng độ 11-dehydro thromboxane B 2 trong nước tiểu, một dấu hiệu của việc tạo thromboxane in vivo, ở 488 trường hợp được điều trị bằng aspirin và đã bị nhồi máu cơ tim, đột quỵ, hoặc tử vong do tim mạch trong 5 năm theo dõi, và ở 488 đối chứng có cùng giới tính và tuổi, cũng nhận aspirin nhưng không có sự kiện nào xảy ra. Sau khi điều chỉnh cho sự khác biệt cơ bản, tỷ lệ của kết cục tổng hợp nhồi máu cơ tim, đột quỵ hoặc tử vong do tim mạch tăng với mỗi phân tứ tăng lên của 11-dehydro thromboxane B 2 , với bệnh nhân trong phân tứ trên có nguy cơ cao hơn 1.8 lần so với những người trong phân tứ dưới (OR, 1.8; 95% CI, 1.2 đến 2.7; P =0.009). Những người ở phân tứ trên có nguy cơ nhồi máu cơ tim cao hơn 2 lần (OR, 2.0; 95% CI, 1.2 đến 3.4; P =0.006) và nguy cơ tử vong do tim mạch cao hơn 3.5 lần (OR, 3.5; 95% CI, 1.7 đến 7.4; P <0.001) so với những người trong phân tứ dưới.

Kết luận Ở những bệnh nhân được điều trị bằng aspirin, nồng độ 11-dehydro thromboxane B 2 trong nước tiểu dự đoán nguy cơ trong tương lai của nhồi máu cơ tim hoặc tử vong do tim mạch. Những phát hiện này nâng cao khả năng rằng mức 11-dehydro thromboxane B 2 cao trong nước tiểu có thể xác định những bệnh nhân tương đối kháng aspirin và có thể hưởng lợi từ những liệu pháp chống kết tập tiểu cầu bổ sung hoặc các điều trị khác hiệu quả hơn trong việc ngăn chặn sự sản xuất hoặc hoạt động của thromboxane in vivo.

#Thromboxane #Kháng Aspirin #Nhồi Máu Cơ Tim #Đột Quỵ #Tử Vong Tim Mạch #Sự Kiện Tim Mạch #Nghiên Cứu HOPE #Bệnh Nhân Nguy Cơ Cao
Mitoxantrone so với daunorubicin trong liệu pháp hóa trị khởi phát-củng cố - giá trị của cytarabine liều thấp trong duy trì tình trạng lui bệnh, và đánh giá các yếu tố tiên lượng trong bệnh bạch cầu myeloid cấp ở người cao tuổi: báo cáo cuối cùng. Tổ chức châu Âu về Nghiên cứu và Điều trị Ung thư và Nhóm Hợp tác Huyết học - Ung thư Đan Mạch-Bỉ Hovon. Dịch bởi AI
American Society of Clinical Oncology (ASCO) - Tập 16 Số 3 - Trang 872-881 - 1998
MỤC ĐÍCH VÀ PHƯƠNG PHÁP

Tối ưu hóa liệu pháp khởi phát lui bệnh và điều trị sau lui bệnh ở người cao tuổi mắc bệnh bạch cầu myeloid cấp (AML) là chủ đề của một nghiên cứu ngẫu nhiên ở những bệnh nhân trên 60 tuổi. Liệu pháp hóa trị khởi phát được so sánh giữa daunomycin (DNR) 30 mg/m2 vào các ngày 1, 2 và 3 so với mitoxantrone (MTZ) 8 mg/m2 vào các ngày 1, 2 và 3, cả hai đều kết hợp với cytarabine (Ara-C) 100 mg/m2 vào các ngày 1 đến 7. Sau khi đạt tình trạng lui bệnh hoàn toàn (CR), bệnh nhân nhận một chu kỳ hóa trị DNR hoặc MTZ bổ sung và sau đó đủ điều kiện tham gia một phân bổ ngẫu nhiên thứ hai giữa tám chu kỳ Ara-C liều thấp (LD) 10 mg/m2 tiêm dưới da mỗi 12 giờ trong 12 ngày mỗi 6 tuần hoặc không điều trị thêm.

KẾT QUẢ

Tổng cộng có 242 bệnh nhân được phân bổ ngẫu nhiên vào DNR và 247 vào MTZ. Độ tuổi trung vị của cả hai nhóm nghiên cứu là 68 tuổi. Bệnh AML thứ phát được ghi nhận ở 26% và 25% bệnh nhân ở mỗi nhánh. Xác suất đạt CR cao hơn (P = .069) với MTZ (47%) so với DNR (38%). Thời gian trung vị của tình trạng hạ bạch cầu trung tính là 19 (DNR) và 22 ngày (MTZ). Tỷ lệ đáp ứng cao hơn với liệu pháp MTZ liên quan đến việc giảm tỷ lệ kháng thuốc hóa trị (32% so với 47%, P = .001). Với thời gian theo dõi trung vị 6 năm, tỷ lệ sống không bệnh trong 5 năm (DFS) là 8% cho mỗi nhóm. Dự đoán sống còn tổng thể không khác biệt giữa các nhóm (6% so với 9% sau 5 năm). Tình trạng hoạt động kém tại thời điểm chẩn đoán, số lượng bạch cầu cao, tuổi cao, AML thứ phát và sự hiện diện của các bất thường về di truyền tế bào đều có tác động tiêu cực đến sự sống sót. AML thứ phát và di truyền tế bào bất thường dự đoán thời gian CR ngắn hơn. Trong số những người phản ứng hoàn toàn, 74 bệnh nhân có thể đánh giá được chỉ định Ara-C và 73 bệnh nhân không điều trị thêm. Tỷ lệ DFS được công bố có ý nghĩa kéo dài hơn (P = .006) cho nhóm điều trị Ara-C (13% [SE = 4.0%] sau 5 năm) so với nhóm không điều trị (7% [SE = 3%]), nhưng tỷ lệ sống còn tổng thể thì tương tự (P = .29): 18% (SE = 4.6%) so với 15% (SE = 4.3%). Phân tích tổng hợp về giá trị của liệu pháp Ara-C sau lui bệnh xác nhận các kết quả này.

KẾT LUẬN

Ở những bệnh nhân cao tuổi chưa được điều trị trước đó với AML, liệu pháp khởi phát MTZ tạo ra tỷ lệ CR có phần tốt hơn so với chế độ có DNR, nhưng không có ảnh hưởng đáng kể đối với thời gian lui bệnh và sống sót. Ara-C trong duy trì có thể kéo dài DFS, nhưng không cải thiện tỷ lệ sống sót.

Tác động bảo vệ của genistein đối với tổn thương ruột do bức xạ ở chuột mang khối u Dịch bởi AI
BMC Complementary and Alternative Medicine - Tập 13 Số 1 - 2013
Tóm tắtĐặt vấn đề

Xạ trị là phương pháp điều trị phổ biến nhất cho bệnh ung thư, nhưng nó gây ra tác dụng phụ là viêm niêm mạc do tổn thương ruột. Chúng tôi đã khảo sát tác dụng bảo vệ của genistein trên chuột mang khối u sau khi xạ trị bụng bằng cách đánh giá sự chết tế bào và những thay đổi hình thái học của ruột.

Phương pháp

Tế bào ung thư đại trực tràng CT26 được tiêm dưới da ở vùng hông của chuột BALB/c để tạo ra khối u. Những chú chuột mang khối u này được điều trị bằng xạ trị bụng với liều 5 và 10 Gy, và được cho genistein với liều 200 mg/kg trọng lượng cơ thể mỗi ngày trong 1 ngày trước khi xạ trị. Những thay đổi trong mô học của ruột được đánh giá sau 12 giờ và 3,5 ngày sau xạ trị. Để đánh giá tác động của điều trị kết hợp lên sự phát triển của khối u, thể tích khối u được xác định tại thời điểm hy sinh trước khi khối u phát triển quá mức.

#genistein; xạ trị; tổn thương ruột; mô học; tử vong tế bào; chuột mang khối u.
Chứng cứ về Đường cong Kuznets Môi trường giữa các Hạt của Hoa Kỳ và Tác động của Vốn xã hội Dịch bởi AI
International Regional Science Review - Tập 38 Số 4 - Trang 358-387 - 2015

Trong nghiên cứu áp dụng này, chúng tôi sử dụng dữ liệu từ các hạt của Hoa Kỳ để xem xét các mô hình trong nồng độ hạt mịn (còn gọi là chất liệu hạt mịn hoặc PM2.5) như một tiêu chí đo lường ô nhiễm không khí trong khuôn khổ của đường cong Kuznets Môi trường (EKC). Chúng tôi đặc biệt chú ý đến vai trò của vốn xã hội và khái niệm về sự nông thôn. Nhất quán với những kỳ vọng, chúng tôi phát hiện rằng đỉnh điểm của EKC dao động giữa 24.000 USD và 25.500 USD cho nồng độ PM2.5 tùy thuộc vào ước lượng được sử dụng. Cũng nhất quán với những kỳ vọng, mức độ cao hơn của vốn xã hội tạo áp lực giảm đối với nồng độ PM2.5, nhưng tác động đó yếu hơn ở các khu vực nông thôn hơn. Hệ quả là việc thúc đẩy tăng trưởng kinh tế có thể gây hại cho môi trường ở các mức thu nhập thấp hơn nhưng sẽ cải thiện môi trường khi thu nhập tiếp tục tăng.

#Kuznets Môi trường #Ô nhiễm không khí #Hạt mịn #Vốn xã hội #Tăng trưởng kinh tế
Thực trạng sử dụng mạng xã hội trực tuyến và một số gợi ý về chính sách
Sự phát triển mạnh mẽ của khoa học và công nghệ đã đưa đến cho loài người nhiều tiện ích mới trong liên kết, giao tiếp xã hội. Mạng xã hội (MXH) trực tuyến ra đời tạo nên một bước ngoặt lớn trong giao tiếp gián tiếp. Với sự hấp dẫn của mình, MXH đã trở thành một bộ phận không thể thiếu trong cuộc sống của người dân, đặc biệt là giới trẻ. Bức tranh sử dụng MXH trực tuyến được thể hiện như thế nào thông qua hàng loạt câu hỏi như: MXH nào được ưa dùng, mức độ, thời gian truy cập, mục đích sử dụng, mạng lưới liên kết ra sao... Làm rõ những vấn đề này sẽ gợi mở một số quan điểm về chính sách, góp phần định hướng sự phát triển của một phương thức giao tiếp quan trọng thông qua phân tích thông tin1 (từ một cuộc khảo sát thực nghiệm được tiến hành với 500 thanh niên độ tuổi 16 đến 35, chọn ngẫu nhiên trong số những người đang sử dụng MXH ở hai thành phố là Hà Nội và Nam Định).  
#lối sống #mạng lưới xã hội #vốn xã hội
Nguồn vốn vật chất và xã hội của các hộ gia đình ở xã thới bình (huyện Thới Bình, tỉnh Cà Mau)
Trong giai đoạn 2000-2015, nguồn vốn vật chất và vốn xã hội của các hộ gia đình ở xã Thới Bình (huyện Thới Bình, tỉnh Cà Mau) đã có sự thay đổi theo hướng tích cực. Tỉ lệ hộ có nhà ở kiên cố, bán kiên cố; có phương tiện đi lại chính bằng xe máy, ô tô; có các đồ dùng lâu bền đều tăng. Mối quan hệ giữa các hộ với họ hàng, hàng xóm ngày càng phát triển và số người tham gia các tổ chức chính trị - xã hội cũng được nâng cao. Bài viết giới thiệu về sự biến đổi nguồn vốn vật chất và vốn xã hội của các hộ gia đình ở xã Thới Bình giai đoạn 2000 - 2015 dựa trên kết quả khảo sát 125 chủ hộ và phỏng vấn 20 chủ hộ , từ đó đề xuất một số giải pháp phát triển hai nguồn vốn này trong thời gian tới. 16.00 Normal 0 false false false EN-US X-NONE X-NONE /* Style Definitions */ table.MsoNormalTable {mso-style-name:"Table Normal"; mso-tstyle-rowband-size:0; mso-tstyle-colband-size:0; mso-style-noshow:yes; mso-style-priority:99; mso-style-parent:""; mso-padding-alt:0cm 5.4pt 0cm 5.4pt; mso-para-margin:0cm; mso-para-margin-bottom:.0001pt; mso-pagination:widow-orphan; font-size:10.0pt; font-family:"Times New Roman",serif;}
#hộ gia đình #nguồn vốn vật chất #nguồn vốn xã hội #xã Thới Bình
Vốn xã hội và hiệu quả hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp trường hợp các doanh nghiệp nhỏ và vừa ở Việt Nam
Bài viết sử dụng bộ dữ liệu của cuộc điều tra doanh nghiệp nhỏ và vừa (DNNVV) giai đoạn từ 2013 đến năm 2015 của Viện Quản lý kinh tế trung ương (CIEM) để tìm hiểu ảnh hưởng của vốn xã hội đến hiệu quả hoạt động của 5.060 DNNVV ở Việt Nam. Kết quả hồi quy logit cho thấy quy mô của doanh nghiệp và mức độ liên kết kinh tế thường xuyên của doanh nghiệp với các doanh nghiệp trong ngành và khác ngành có tác động lớn đến hiệu quả hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Sự liên kết kinh tế giữa các doanh nghiệp càng cao lại làm giảm hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp, đặc biệt là sự liên kết giữa các doanh nghiệp trong cùng ngành nghề kinh doanh. Đồng thời, quy mô doanh nghiệp càng lớn dẫn đến hiệu quả kinh doanh càng giảm. Từ đó, tác giả đề xuất một số gợi ý nhằm hỗ trợ cho hoạt động sản xuất kinh doanh của các DNNVV.
#Doanh nghiệp nhỏ và vừa #hiệu quả hoạt động kinh doanh #quy mô doanh nghiệp #vốn xã hội
Vốn xã hội của phụ nữ trong tiêu thụ sản phẩm tiểu thủ công nghiệp ở một số làng nghề truyền thống vùng châu thổ sông Hồng
Tạp chí Khoa học Xã hội và Nhân văn - Tập 4 Số 3b - Trang 399-412 - 2019
Vai trò của vốn xã hội trong phát triển kinh tế nói chung và quá trình sản xuất nói riêng đã được nhiều nghiên cứu khẳng định. Tiêu thụ sản phẩm là công đoạn cuối của quy trình sản xuất và kinh doanh nhằm phân phối sản phẩm ra thị trường, phục vụ nhu cầu của người tiêu dùng. Bài viết này sẽ bàn về vốn xã hội của phụ nữ trong khâu tiêu thụ sản phẩm tiểu thủ công nghiệp ở hai làng nghề nổi tiếng thuộc huyện Thường Tín, Hà Nội, cụ thể: làng Hạ Thái thuộc xã Duyên Thái sản xuất các sản phẩm sơn mài và làng Trát Cầu, xã Tiền Phong chuyên sản xuất chăn, ga, gối, đệm. Vốn xã hội của phụ nữ trong khâu tiêu thụ sản phẩm tiểu thủ công nghiệp được tìm hiểu dưới hai góc độ: Việc tìm kiếm khách hàng và giao dịch giữa phụ nữ sản xuất và các khách hàng quan trọng như cách thức đặt hàng, cách thức thanh toán, cam kết hai bên khi nợ tiền hàng, cách thức chuyển hàng. Dữ liệu mà bài viết sử dụng được lấy từ kết quả khảo sát do tác giả thực hiện tại hai địa bàn nói trên vào năm 2017, với cỡ mẫu phỏng vấn bảng hỏi là 395 phụ nữ và phỏng vấn sâu 20 phụ nữ. Kết quả nghiên cứu cho thấy vốn xã hội đã mang lại một số lợi ích nhất định cho phụ nữ ở hai địa bàn khảo sát khi họ tiêu thụ sản phẩm. Một số phụ nữ dựa vào mạng lưới xã hội của mình để tìm kiếm khách hàng. Những khách hàng quan trọng chủ yếu đến bên ngoài làng như tỉnh khác, huyện khác. Nghiên cứu cũng chỉ ra mối quan hệ giữa phụ nữ và các khách hàng tồn tại lòng tin được thể hiện qua cách đặt hàng chủ yếu qua điện thoại, thanh toán tiền sau khi chuyển hàng với hình thức cam kết đơn giản. Điều đó mang đến sự thuận tiện, tiết kiệm thời gian, công sức và chi phí cho cả phụ nữ và khách hàng. Tuy nhiên, với cách làm này, phụ nữ hai làng nghề dễ rơi vào tình huống bị khách hàng không trả tiền. Thực tế cũng cho thấy, gần một nửa phụ nữ đã từng không lấy lại tiền từ khách hàng.  Ngày nhận 20/8/2018; ngày chỉnh sửa 27/12/2018; ngày chấp nhận đăng 28/12/2018 https://doi.org/10.33100/tckhxhnv4.3b.PhanThiThuHa
#vốn xã hội #phụ nữ #sản xuất #tiểu thủ công nghiệp.
Xác định giá trị tiên lượng tử vong của thang điểm CURB-65 ở bệnh nhân viêm phổi do COVID-19 nhập viện
Mục tiêu: Xác định giá trị tiên lượng tử vong của thang điểm CURB–65 ở bệnh nhân viêm phổi do COVID–19 nhập viện. Đối tượng và phương pháp: Nghiên cứu tiến cứu, theo dõi dọc 131 bệnh nhân viêm phổi do COVID–19 nhập viện tại Trung tâm điều trị COVID-19 thuộc Bệnh viện Quân y 175, thời gian từ 17/7/2021 - 1/10/2021. Thang điểm CURB–65 được sử dụng để đánh giá nguy cơ tử vong khi bệnh nhân nhập viện. Kết quả: 131 bệnh nhân viêm phổi do COVID-19 nhập viện đươc nghiên cứu, tuổi trung bình là 55,57 ± 14,6 năm. Nam giới chiếm 45,8% và nữ 54,2%. Tỷ lệ tử vong tăng dần theo điểm CURB–65 (p<0,001). Điểm CURB-65 có khả năng tiên lượng tử vong tốt ở bệnh nhân viêm phổi do COVID-19 nhập viện, với diện tích dưới đường cong ROC là 0,86. Điểm cắt có giá trị tiên lượng tử vong tốt nhất là CURB–65 ≥ 2 điểm, với độ nhạy 82%, độ đặc hiệu 83%, giá trị tiên đoán dương 66%, giá trị tiên đoán âm 92%. Kết luận: Thang điểm CURB–65 là công cụ đơn giản, hiệu quả để tiên lượng nguy cơ tử vong cho bệnh nhân viêm phổi do COVID-19 nhập viện.
#Viêm phổi do COVID-19 #tiên lượng tử vong #thang điểm CURB-65
Vai trò của cộng đồng Tin Lành trong một số hoạt động kinh tế của tín đồ ở Hà Nội
Tạp chí Khoa học Xã hội và Nhân văn - Tập 6 Số 1 - Trang 53-66 - 2020
Ở Việt Nam những năm qua, đạo Tin Lành không chỉ có sự phát triển mạnh mẽ trong cộng đồng người dân tộc thiểu số cư trú tại các vùng miền núi mà còn có sự phát triển đáng ghi nhận nơi đô thị. Ở phạm vi Thủ đô Hà Nội, cộng đồng Tin Lành ngày càng đa dạng hóa và gia tăng về số lượng, đồng thời thể hiện rõ hơn vai trò hỗ trợ thành viên trong đời sống tôn giáo và thế tục trong đó có hoạt động kinh tế. Cộng đồng này - nhìn như một loại mạng lưới quan hệ xã hội cấu thành từ các cá nhân có chung niềm tin vào Chúa Trời - có vai trò như thế nào trong hoạt động kinh tế của tín đồ? Đây là câu hỏi mà nghiên cứu này tìm cách trả lời. Dù chủ đề này đã được các nhà nghiên cứu trong và ngoài nước quan tâm, nhưng còn thiếu những khảo cứu chuyên sâu. Bài viết này, tiếp cận vấn đề nghiên cứu từ các lý thuyết được phát triển gần đây về vốn xã hội và tập trung vào cộng đồng tín đồ thuộc một số Hội thánh Tin Lành ở Hà Nội để phân tích và qua đó làm rõ các phương diện khác nhau về vai trò mà một cộng đồng tôn giáo ở đô thị thể hiện đối với các thành viên của mình trong những hoạt động kinh tế thuộc về đời sống thế tục. Ngày nhận 10/10/2019; ngày chỉnh sửa 18/12/2019; ngày chấp nhận đăng 28/02/2020
#Tin Lành #cộng đồng Tin Lành #vốn xã hội #Hà Nội.
Tổng số: 91   
  • 1
  • 2
  • 3
  • 4
  • 5
  • 6
  • 10